Trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập II, phần viết về Hồ Xuân Hương, ở trang 86, nhà thơ Xuân Diệu có ghi “ở Liên Xô, đã xuất bản một tập thơ Hồ Xuân Hương, dịch ra tiếng Nga (do Nikulin)”. Sau những nhận định mạnh mẽ cả quyết, một câu có vẻ thông tin thuần tuý như thế này lại được tác giả viết ra không dứt khoát lắm khiến bạn đọc lên có thể hơi ngần ngại.
Sự thực thì như thế nào?
Đúng là có một tập thơ Hồ Xuân Hương được dịch ra tiếng Nga thật. Đó là tập Hồ Xuân Hương, Thơ; NXB Khoa học; Moskva;1968. Nhưng tên người dịch cũng đã được ghi rõ ràng ở trang 3 là Genadi Jaroslavtsev và chỉ trang 4 mới chua thêm N.I. Nikulin biên soạn và chú giải.
Tuy nhiên điều đáng nói nhất qua tập thơ 128 trang và in mười ngàn bản này là cách hiểu của soạn giả và dịch giả về Hồ Xuân Hương, ở đó hé ra cách hiểu về thơ khá thú vị.
Nguyên những người thường xuyên tìm hiểu công việc nghiên cứu văn học ở Liên Xô mấy chục năm nay đều biết tên tuổi của M.M.Bakhtin với cuốn chuyên khảo kiệt xuất Những vấn đề thi pháp Dostoievski (in lần đầu 1929, sau đó in lại nhiều lần, còn được dịch in ở Pháp và nhiều nước khác). Qua năm 1965, cũng thuộc về ngòi bút của nhà nghiên cứu này, còn có một công trình khác được xuất bản, và được coi là đặt nền móng cho nhiều vấn đề lý luận văn học quan trọng, đó là cuốn Sáng tác của Rabelais và nền văn hoá dân gian trung thế kỷ và Phục hưng. Theo như cách nói của một người bạn và người học trò của Bakhtin là L. Pinski, thì Bakhtin “nhìn thấy ở Rabelais một đỉnh cao của dòng sáng tác dân gian phi chính thống và chỉ một lần bột phát trong dòng văn học cao cấp vào thời Phục hưng”. N. Nikulin hoàn toàn tán thành quan niệm đó. Theo Nikulin, ý kiến của Bakhtin có thể giúp chúng ta tìm ra cách tiếp cận mới đối với hệ thống mỹ học của Hồ Xuân Hương. Tương tự như Rabelais, sáng tác của Hồ Xuân Hương đối với chúng ta dường như là sự bột phát của nền văn hoá dân gian trung cổ còn chưa được công nhận vào khu vực sáng tác ngôn từ “bác học” “cao cấp”.
Ở một đoạn khác, Nikulin khi phân tích tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương còn liên hệ với tiếng cười dân gian lúc ấy (chủ yếu là trong sân khấu) và ông dùng khái niệm tiếng cười có ý nghĩa kép (tiếng Pháp: ambivalence) với nghĩa trong tiếng cười đó (ở đây là tiếng cười của Hồ Xuân Hương) có cả phủ nhận lẫn khẳng định, cả chê bai lẫn khen ngợi; ở đó cái chết và sự sinh thành như quyện lấy nhau chặt chẽ. Khái niệm ambivalence cũng là do Bakhtin khởi xướng và đưa vào sử dụng trong công trình nghiên cứu về Rabelais. Chúng tôi không có điều kiện trình bày đầy đủ, lại càng không có nhiệm vụ bình luận nhận xét trên đây của Nikulin, song theo chúng tôi hiểu thì các chuyên gia về Hồ Xuân Hương ở ta có lẽ cũng nên tiến hành đối thoại với nhà nghiên cứu Xô viết về vấn đề này, biết đâu từ đó chẳng nẩy sinh nhiều quan sát sâu sắc khác.
Bên cạnh Lời mở đầu của Nikulin, cuốn Hồ Xuân Hương. Thơ còn in ở cuối sách Lời người dịch. Đứng về nghiệp vụ xuất bản mà xét thì đó là một ngoại lệ, chứng tỏ sau khi làm việc, dịch giả có rất nhiều suy nghĩ và thấy cần phải chia sẻ với bạn đọc những điều tâm đắc của mình. G. Jaroslavtsev nói gì sau khi dịch nhà thơ Việt Nam độc đáo này? Ở một chỗ ông nói rằng tính đa nghĩa và giàu liên tưởng cũng là chất grô-tét (grotesque, có nghĩa là kỳ quặc, dị thường) trong các hình tượng do Xuân Hương gợi ra khiến ông nhớ tới chủ nghĩa tự nhiên có phong cách gô-tích của F. Villon (1431-1465).
Đây cũng lại là một nhận xét mà chỉ những người có hiểu biết sâu rộng về những nền văn học khác nhau mới dám phát biểu.
Sau gợi ý Hồ Xuân Hương và Rabelais của Nikulin, sự tương ứng giữa Hồ Xuân Hương và Villon do Jaroslavtsev nêu lên, nếu được chứng minh đầy đủ, chỉ làm cho nữ thi sĩ của chúng ta thêm lớn.
Bởi mặc dù sống và viết từ năm thế kỷ trước nhưng Villon thường được các nhà thơ Pháp thế kỷ hai mươi hết sức ca ngợi, họ cho rằng thơ Villon có một cốt cách rất hiện đại.
Đây là mấy câu thơ tự thuật mang đậm chất tưng tửng đùa cợt ông làm lúc bị kết án tử hình “Tôi là Francois - có chi mà tôi thích - nhưng than ôi thần chết – đang chờ tôi đây này - mông nặng mấy cân đây - rồi cái cổ khắc biết”.
Sau hết cũng hết sức thú vị là sự so sánh Xuân Hương và một nhân vật của Dostoievski do Jaroslavtsev nêu ra, nhằm từ đó đặt vấn đề nhận diện Hồ Xuân Hương.
Trong phần cuối bài viết súc tích của mình Jaroslavtsev gợi ý: “Thời gian không lưu lại chân dung Hồ Xuân Hương. Nhưng thơ bà đã khắc lên rõ nét khuôn mặt con người kỳ tài ấy. Trong tâm trí của một người dịch như tôi, khuôn mặt của Xuân Hương hiện lên qua thơ rõ rệt khiến tôi nhớ lại một cách sinh động hình ảnh con người tuyệt vời của Nastasia Filippovna. Sở dĩ một so sánh có vẻ bất ngờ đó không thể gọi là bất ngờ bởi lẽ số phận riêng, tính cách, khao khát của nữ thi sĩ đất Việt và nữ nhân vật của Dostoievski trong Chàng ngốc có nhiều chỗ giống nhau một cách kỳ lạ”. Jaroslavtsev viết tiếp: “Xét trên ý nghĩa và đặc điểm của nó, lời thách thức táo tợn của Hồ Xuân Hương với bọn quan lớn quan nhỏ và lũ sư mô giả dối chung quanh bà rất gần với sự nổi loạn của Nastasia Filippovna chống lại nhưng tên như gã quý tộc Totxki, tên tướng Epantsin và Ivolghin. Từ chỗ đứng của sự thật và chính nghĩa, hai người cùng ném vào mặt kẻ thù những lời tố cáo gay gắt, tố cáo chúng đã cướp đi ở mình cái quyền tối thiểu của tuổi trẻ là quyền được yêu, được sống hạnh phục. Đồng thời trong thơ của người nữ thi sĩ Việt Nam cũng như trong tính cách của nữ nhân vật trong Dostoievski thấy kiên trì vang lên như một nốt đàn cao cái cảm giác chính xác về ưu thế riêng của mình… chính đó là những yếu tố làm cho họ trở nên hết sức gần gũi với nhau:
… Dù là chưa nói đến phạm vi của khoa nghiên cứu văn học theo lối so sánh, chỉ với tư cách cảm tưởng, ấn tượng của người biên soạn và người dịch thơ, những nhận xét trên đây của Nikulin và Jaroslavtsev rất đáng để chúng ta trân trọng.
Trong cái việc mang thơ Hồ Xuân Hương đặt bên sáng tác của những văn hào nổi tiếng khác, mang con người Xuân Hương đặt bên những tính cách đã thành tiêu biểu trong văn học thế giới, hai nhà nghiên cứu đã giúp chúng ta đến với nhà nữ thi sĩ kỳ tài và những sáng tác của bà bằng những nẻo lối mới có kết quả hơn.
Trong nghiên cứu văn học xưa nay vẫn có chuyện đó: con đường để đi tới một đỉnh cao nhiều lúc lại phải đi vòng qua những đỉnh cao khác. Muốn hiểu cho thấu đáo sâu sắc một thi hào của dân tộc mình, chúng ta phải có thêm hiểu biết về các nhân vật cự phách trong các nền văn học khác. Và nếu như lúc nào đó, có ai tập hợp được tất cả ý kiến của các tác giả nước ngoài về Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương của ta, biết đâu chẳng có một cuốn sách thú vị? Ít nhất, nó cũng có tác dụng kích thích với công tác nghiên cứu trong nước.
Đã in trong Chuyện cũ văn chương