VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Trên chuyến tàu đêm giao thừa

3/2/73 (30 Tết Nhâm Tý)
Đêm 30. Tôi đi để sống với những người khác, hay là để trốn chạy khỏi nỗi chán chường cá nhân– hai cái đó thật khó phân biệt.

Người từ Hà Nội đi, lúc đầu tưởng độ 100, sau 700-800, 1000. Toàn là cán bộ nhà nước, với quá nhiều xe đạp.

Sau những đớn đau tê dại, tưởng như cuộc sống đã mất những thiêng liêng. Nhưng trong những ngày giờ như lúc này vẫn là những náo nức hy vọng.


Buổi chiều tất niên, tôi sống những giờ phút thảng thốt. Tết mà lại nắng, mọi thứ nhếch nhác cứ trơ ra trong nắng. Bụi bẩn. Xe đạp phóng ẩu. Những người đàn bà lo sinh kế. Mấy cô gái mới lớn thích diện nhưng nghèo. Những đứa trẻ hau háu đợi người đến bơm xe đạp. Trong khi đó thì người ta vẫn ra vẻ vui vẻ. Thỉnh thoảng lại một tiếng pháo nổ rất bực mình.

… Chính vì muốn giải phóng ra tất cả những cái đó, tôi lánh đi, tôi quằn quại tìm cách đi.

Đêm nay, tôi sống giữa những người không quen biết, bởi chỉ có một chỗ giống họ xa nhà. Nhưng cái chính là một không khí khác. Tôi được sống trên một cái gì đang đi. Giữa đêm đen, tôi sống biệt lập trong một vùng ánh sáng xa lạ.

Đến Nam Định thì giao thừa. Lòng tôi mơ theo lửa đỏ — pháo hoa Hà Nội. Trong khi đó thì ở đây chỉ có những quả pháo nổ lẹt đẹt.

Ở một làng nào, lửa đỏ như vệt B52 trong đêm. Hay ai đó vui quá cho bắn pháo ? Người ta nói chuyện gì lúc giao thừa, lúc vui?

Trên cái toa xe phần lớn bộ đội này, người ta lại nói chuyện chiến thắng. Nói tới tình thế. Nó chịu ta rồi. Nó sẽ cho ta mấy tỉ mỹ kim… Nhưng khi tôi hỏi mỗi người sang năm anh định làm gì, sang năm anh có kế hoạch gì — thì không ai trả lời cả. Cũng như bom Mỹ đánh hôm trước, hôm sau trên báo có thơ ngay, còn khi tuyên bố hoà bình rồi, chả thấy ai hé răng gì cả.

- Hôm địch đánh 18, anh ở đâu?

Tôi hỏi câu đó với nhiều người. Ít ai có cái ấn tượng kinh khủng như chúng tôi.

(Trong khi đó, ngay chiều ba mươi trên tàu điện ở Hà Nội, một người đàn bà nói với tôi:

- Làng tôi may quá, chỉ chết có 4 người. Chẳng phải nói chứ chính là nhờ làng tôi làm hầm Cồn Cỏ. Thành ra cũng đỡ được nhiều lắm. Những làng khác, hầm đào nổi quây quây mấy hòn gạch, chết vô khối. Gớm hôm nó đánh xong, tưởng tất cả chết, chỉ mình mình còn sống. Sau thấy cũng còn nhiều người còn sống mới hết sợ.

Nghĩ lan man. Thế nào là một nghề phục vụ? Nghệ thuật, vừa là một thứ công nghiệp, lại vừa là một nghề phục vụ. Tâm lý thanh niên thời đại? Tôi biết tìm đâu, để hiểu điều này?

Có một cái gì đấy, như là bất mãn, nảy sinh trong lòng tôi. Bất mãn trước một thực tế già cỗi, trì trệ của đất nước.

Thời đại vừa có gì rộng quá, đến nỗi chúng tôi không hiểu hết được. Lại vừa như là chật quá, vớ vẩn quá, có nhiều chuyện, tôi nghe mãi phát chán.

Tôi vốn không tin rằng mọi xã hội có thể xoay chuyển nhanh. Sống trong xã hội này, càng thấy trì trệ. Vậy mà vẫn thường xuyên bực bội. Gần như muốn phát khóc vì tốc độ chậm rề chậm rệt của chung quanh. Nhớ có lần ngồi trên gác CLB Ba Đình nghe nói chuyện, nhìn xuống phía quảng trường, thấy những bóng người đạp xe qua lại lơ thơ. Như từ thế kỷ nào xa lắm hồi vọng lại. Vậy mà chốc nữa, giá tôi đi xuống đó, thì cũng lại tự nhiên y như mọi người khác, cắm cổ đạp vội.

Một ý của Nguyễn Khải (nhân bàn về tình trạng sau chiến tranh mọi người ít nghe đài ):

– Người ta chóng quên ghê lắm. Càng chóng quên là những việc không dây dưa gì đến người ta. Như mình, mình cũng chỉ chú ý tới chiến tranh, lúc nó sát một bên, còn bây giờ hoà bình, ai làm gì thì làm, mình biết đâu?
   Nhưng vẫn thấy lạ là cái chuyện thế giới quan tâm đến mình. Mà quan tâm hơi lâu. Đúng là nó có dính gì đó đến họ, dính về mặt trí tuệ đấy.

   Tôi cũng thấy như ông Khải.. Những năm chiến tranh nhiều dân tộc chia sẻ với chúng ta chống Mỹ. Với ý nghĩa là dân tộc Việt Nam phải có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình.

Nhưng sau đó rồi, thì chúng tôi cảm thấy bơ vơ. Điều mà họ nghĩ, với điều mà chúng tôi nghĩ, là có khác. Họ mong chờ tới một cái, nhưng chúng tôi lại không có cái điều mà họ đang mong.

Thường thì đôi lúc, tôi cứ kinh sợ vì những đứa trẻ. Nó là biểu hiện sức sống của  dân mình một cách rõ rệt hơn. Biểu hiện rằng dân tộc này không chết.

Nhưng có chắc rồi có một sự sống thật sự, một sự sống ở trình độ cao? Hay đó chỉ là biểu hiện sự sống của một cái gì đang chết sẽ chết. Như một cá nhân, bao người đã chết để xã hội chết theo?

Là những bậc thầy về công việc vá víu – người ta nói về Việt Nam là vậy.

Giá anh bảo một người Việt Nam rằng anh phải sống nghèo hơn, khổ hơn, anh không được đi đâu làm gì cả, anh sẽ rên xiết trong những điều lạc hậu… thì người Việt Nam kia sẵn sàng gật đầu.Tôi không chết. Tôi vẫn sống. Và tôi còn sinh đẻ nữa. Thế là đủ.

Nhưng bảo rằng anh phải làm ăn cho khá hơn, anh phải bớt sinh đẻ đi, anh phải nâng cao cuộc sống anh hiện nay — thì người Việt Nam kia cảm thấy rất mực khó khăn.

Trên đường đi. Ga Nam Định, Thanh Hoá 1500 khách

Ga Vinh – 2000 khách. Hành khách trung bình chờ 30-38 giờ

Hành khách lịch sự nhất Hà Nội Hải Phòng

Hành khách khó tính xấu tính phía Nam. Lên tầu, tìm ăn ăn xong, rải ni lông ra sàn ngủ.

Ninh Bình – thành phố của núi đá và những công trình của con người, ngay trên một miền đất phẳng.

Núi rất nhọn, sông rất xanh, và cỏ rất cằn, đất rất rộng, đó là Ninh Bình. Những đoạn đường bụi đỏ hai bờ cây lá. Nông trường Đồng Giao nhà chỉ còn tường nhiều đoạn đường mòn đi qua nền nhà.

Phần lớn hành khách là bộ đội.

Ngày tết thành phố chen chúc khác thường. Còn như ở đây, buổi sáng mùng một im lìm. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe com măng ca một chiếc xe đạp.

Những người lớn đâu cả, chắc đang lo cúng bái, bàn việc với nhau trong nhà. Chỉ có đám trẻ con chạy ra đường. Trẻ con từng đám, đứng chen chúc đầu ngã tư đường. Hàng chục đứa, cùng chỉ một màu áo xanh trứng sáo. Chúng nó không hết ngạc nhiên trước những đoàn tàu đi qua. Chúng nó băm bổ chạy dọc con đường sắt:

- Chúng mày được nghỉ học mấy ngày?

- Được nghỉ đến mùng 3 thôi

- Giá kể đến mùng 4, mùng 5 thì thích.



- Lớn lên chúng mày đi bộ đội nhớ.

- Vâng. Vâng… Thích lắm.

Hàm Rồng. Lại những khung cảnh chiến tranh. Một địa thế rộng. Lèn đá vệt bom đã cũ, lì ra, con đường lì ra, mặt đường đầy bụi. Những chiếc xe tải vập vạp, lúc lẫn vào  bụi đỏ, lúc lẫn vào bụi trắng.

Buổi sáng, đoàn xe tải chở phà bật đèn đi.

Càng sáng, càng nhiều xe.

Chỉ có những đoàn xe là đông, là làm sống lại khung cảnh khu vực nhà máy điện cũ nát. Hố bom, cái thì cỏ lên xanh, cái thì còn đỏ miệng. Dáng người đi, lẫn vào trong đường xá trời đất. Mấy người đàn bà đi cắt cỏ. Cỏ dại. Người cũng như là một giống cây dại. Ở thành phố, người nhiều, người lúc nhúc. Bất cứ ở đâu,  cũng thấy dấu vết của khai phá xây dựng, những vạt cỏ, những ánh đèn, bóng nhà cao. Ở những quãng sông nước này, thiên nhiên khắc nghiệt, và hoang vu quá. Hoang vu đến mức những mái nhà bị bỏ quên cũng trở nên ngất nghểu.

Có lẽ vấn đề trung tâm mà tôi phải nghĩ trong những ngày tới – bộ mặt của một đất nước sau chiến tranh. Những di luỵ của chiến tranh trong đời sống trong tâm lý.

Hoà bình có một nghĩa chung với tất cả mọi người. Nhưng với mỗi người, hoà bình lại có một nghĩa khác.

Đối với Khu 4, hoà bình có nghĩa là một cuộc sống trở lại trên mặt đất.

Những cụm ga những đoạn cầu, nó như là nơi đối mặt của hai bên chiến tranh. Những gì tàn phá chưa chịu lẩn đi mà còn chềnh ềnh đó, nên những gì sinh sống phải gạt ra mà đi lên.

Ngổn ngang, không bao giờ mặt đất hết ngổn ngang — Nhưng một cái gì chủ yếu nhất — sức hoạt động — thì đang tự nó làm nên ấn tượng một sự thay đổi. Sự tình là cái sống phải lấn cái chết từng bước một. Phải gạt cái tàn phá sang một bên để mà đi. Phải rót sinh lực vào những khu vực mới, từ đó, những khu vực này sẽ đẩy cái chết đi.


 TRỞ LẠI HÀ NỘI
4/2
Trong lúc này vẫn không thể quên được các vấn đề cơ bản như vấn đề trí thức

Nhàn: Tôi khổ tâm lắm. Tôi không dám tin gì cả.

Khải: Tất nhiên, mọi chuyện ngày mai có thể là vẫn thế thôi. Nhưng tôi cũng mong rằng ông sai, tôi sai, nghĩa là mọi chuyện lại thay đổi theo kiểu khác. Ví dụ như về các chuyện hòa bình này nhớ. Hôm qua tôi ngồi ở nhà Nguyễn Thành Long, ngồi bàn, thấy không ngờ hòa bình lại có thể gọn ghẽ như vậy. Thế có phải là có gì ngoài mong ước không. Lãnh đạo một cuộc chiến tranh như thế này khó lắm chứ. Thằng Mỹ nó cũng biết không phải nó đứng bên bờ vực thẳm, mà là mình bên bờ vực thẳm. Nó biết rằng mình đã bị lừa nhiều rồi. Rằng mình rất cay mấy tay kia (Cụ Hồ hồi 46: Thà ngửi phân tây còn hơn dọn cứt cho thằng Tàu, nhưng biết bao giờ hết mùi) Rằng cơ sở kinh tế của mình khốn khó.

Thế nhưng mà nó vẫn chịu mình.

- Thế nghĩa là có một cái gì đấy thuộc về bí mật của giới lãnh đạo Bắc Việt? Tôi cũng nghe thằng Chu nói rằng ông Duẩn nói rất ghê, đến nỗi thằng Chu nói rằng chỉ sợ ông ấy bị lật.

- Không, cái ông này nói thì bao giờ cũng có những khía cạnh mới (như ông ấy nói về sử, dân tộc mình nhuộm răng đen, không bó chân, làm cho nó khác người Trung quốc) cho nên, vấn đề không phải chỉ là nói, vấn đề là làm cơ!

- Tôi thấy cái cách làm ăn như của mình không được. Phải tạo điều kiện cho giới trí thức làm nhiệm vụ kích thích, nhiệm vụ nói lên một tiếng nói thách thức….

- Không, ông ơi, chính những người như Kíssingger lại nói nhiều đến quyền lực. Tay mưu sĩ ấy rất thích đe dọa, rất coi thường quần chúng. Quần chúng là cái gì đâu, Quốc hội Mỹ làm được việc gì đâu.

- Dẫu sao thì vẫn phải nói đến trí thức.

Ví dụ như trong tác phẩm của anh, hay nói đến chuyện khôn dại là đúng thôi. Điều tôi lo ngại chỉ còn là chỗ này. Làm sao để người ta khôn lớn, chứ không phải là sự tính toán lặt vặt.

- Đúng, chỗ ấy thì đúng thôi. Chính là tôi thấy dân mình lại quá ít suy nghĩ, quá ít trí tuệ. Người mình hay thay đổi lắm, nông nổi, nhẹ dạ, cả những người ghê gớm nhất cũng hay thay đổi. Còn tin vào cái gì được nữa? Cho nên tôi cứ nghĩ được cái gì, biết cái ấy. Tôi không thể nào xây dựng được điển hình.

- Sao có lúc, anh nói rằng ông Đồng rất tuyệt vời. Rồi có lúc, các anh lại nói ông ấy rất vớ vẩn (có mỗi cái trò: “Các đồng chí viết không bằng tôi!”)

- Thì ông phải biết rằng chúng tôi là cái dân văn nghệ bốc phét. Có lúc tôi vui, có lúc tôi buồn. Khi tôi khen người này hết lời. Cũng có lúc tôi lại chê thẳng cánh. Chúng tôi là như thế. Bao nhiêu chuyện ông ghi, đều là nên viết ra cả.

… Cái thân anh văn nghệ báo chí ở cái xứ Đông Nam Á da vàng mũi tẹt này thì khổ lắm. Như vừa rồi Kíssingger sang Thái Lan ở sân bay xuống, nó không thèm tiếp các nhà báo, nó mới thả một lô chó ra, chó cứ sủa các nhà báo đi thôi.

6/2
Chiều nghe ông Đồng nói chuyện. Một sự loanh quanh, không biết chính sách là hoà bình hay chiến tranh. Một sự răn đe, rằng cẩn thận không có Nhân văn giai phẩm.

Bùi Bình Thi: Đề phòng giai cấp lãnh đạo Bắc Việt ngủ lì trên thắng lợi!

Nhàn: Có nhiều chuyện, hồi trước chịu được, bây giờ không chịu được.

Khải: Thế thì anh chết thôi. Anh có thấy không, hiện nay các nước nó bò sát mặt đất mà ca ngợi mình (Bà Gandi: Thử xem người châu Âu mà đổ máu như vậy, thì người ta có chịu không?). Mà càng như thế, tức là càng chứng tỏ đường lối của mình là đúng đắn. Anh mà nói ngược, anh lại càng bỏ mẹ. Rồi nay mai, còn học chính trị, còn là nhồi nhét mọi chuyện vào đầu óc.

Ông Lê Duẩn vào trong 559: Bây giờ mà đòi hỏi địa vị, hưởng lạc là tàn ác.

Ông Tố Hữu: Hôm qua không đi miền Nam tội một — Hôm nay tội mười

Tôi biết sống sao đây? Những hiểm hoạ trong thời bình sẽ rất khủng khiếp. Những thói xấu trong hoà bình có những khía cạnh vô lý của nó. Nhưng biết làm sao được, mọi chuyện là vậy.

10/2 (2 tuần sau hoà bình)
Cán bộ trung cấp tập họp, nghe nói về vụ chống Đảng.

Khải : Xem mới thấy các ông ấy, khi phun ra nhau, cũng khủng khiếp lắm.

- Thế họ có gì là xấu, hay họ chỉ khác về quan điểm?

- Bán bí mật cho nước ngoài, phản bội, phản quốc, thế là xấu quá rồi còn gì? Ở các nước khác, người ta còn mang xử công khai nữa!

- Cho nên, tôi chỉ thấy tốt hơn hết là anh nên yên tâm với công việc đã có. Không nên biết nhiều. Biết nhiều quá, lại sinh ra thắc mắc. Yên chí làm một người lao động bình thường.

- Thôi, cũng nghĩ rằng chính quyền này là chính quyền của các anh, hết những ông Lê Duẩn, Trường Chinh, lại đến các ông Vũ Quang. Lớp già như thế nào, thì lại đẻ ra lớp trẻ như vậy.

- Phải, nghĩ thế là phải.

- Nhưng nhỡ ra, chính giữa các ông ấy nổ ra mọi chuyện thì sao?

- Không, không thể có chuyện gì cả, vì trong số đó, đã có một thiên tài rồi.

Nghĩ mọi chuyện lắm lúc cũng không biết đằng nào mà ho he cả. Nó là cả một guồng máy. Người khá đặt giữa đám hỏng, rồi cuối cùng cũng thành vô hiệu.

Đôi lúc, tôi cảm thấy như có vẻ mình nghe được một điều gì đấy thuộc về đời sống tinh thần của đất nước nói chung. Tất cả là như hôm qua, như chiến tranh, như trong mãi tận chiến trường. Nhưng vẫn là có những dấu hiệu của cái gì đó khang khác.Ví dụ như đây là dấu hiệu của những ngày này. Người ta đang bất mãn, đang đòi hỏi, người ta đang muốn đánh giá lại, suy xét lại mọi thứ. Cái yêu cầu của cấp dưới thì bao giờ cũng hơi quá lên một ít. Yêu cầu của trên cũng có, nhưng lại muốn giữ một sự chỉ đạo, chỉ huy.

11/2
Một ngày chủ nhật, chủ nhật đầu tiên sau tết.

Đêm thứ bảy, tôi đến nhà những người công nhân đường sắt. Quyền, một người nông dân, đi làm cách mạng, chân thành và dại dột. Nhuận và cái khu nhà mênh mông trong Nhà hát nhân dân.

Ga Hà Nội lại đông. Những đám người tụ tập đầy đường (Quyền: Toa tầu bẩn như lòng đường nhựa. Năm nay, bao nhiêu người khu Bốn về thăm nhà!)

Sáng chủ nhật, tôi và Tính ngồi bàn nhau định đến thăm một trận địa ở giữa sông. Tính giở ảnh vợ con ra xem (những đứa trẻ, người ta ghép cho nó đến lắm khả năng và ý nghĩa!)

Mấy người bạn của Tính đến chơi. Hiệu, trung đoàn phó, một D trưởng, 1 C trưởng. Trông ba người ra ba dáng khác nhau. Một cán bộ chỉ huy kiểu Tsapaev nông dân, thô tục, nhưng lại sắc sảo. Một anh chàng quê mùa, ngậm miệng như cóc. Một anh chàng học sinh duyên dáng mới ra Hà Nội đã sắm dép nhựa. Họ rủ nhau đi xem B52 (trong kia, thấy nó thả từng dây, bây giờ mới tận mắt nhìn thử xem nó thế nào) Họ còn nói chuyện về chiến trường, những ngày E27 vào tận Hải Lăng…. Trên người cậu D trưởng, là một chiếc áo của địch. Loại áo vi ny lông, nhưng may theo kiểu va rơi, và cũng đã hơi cổ. Anh khoe một hôm, mưa rất to, cái áo cũng không ướt.

Hỏi đường đi xem B52 xong, họ hỏi đường ra Hàng Trống, may những bộ quần áo vi ny lông. Cái cảm tưởng chính: họ là những người quá tự do. Họ làm chủ cái đất nước này.

Tôi đi cắt tóc. Từ chuyện rẽ đầu ngôi, ra đủ mọi chuyện.

- Thôi cần gì đầu ngôi, để cho gọn là được.

- Diện gì lúc này. Khối anh chải đầu chải óc cẩn thận, ăn mặc đẹp, mà nói năng không ra sao cả.

- Bây giờ chính phủ còn đang bận bao nhiêu chuyện, chưa dạy được. Hoà bình được ít ngày, mấy cái thằng trong kia lại còn phá thối. Nhưng mà thầy nó theo mình rồi, thế là được rồi.

(Lại nhớ lời ai đó nói Cuộc chiến đấu của dân tộc làm cho người dân thường của mình cũng có những hiểu biết rất đặc biệt)
Ngày mai 12/2 ngày trả tù binh Mỹ (140 tay Mỹ về nước!) ở bên sân bay Gia Lâm.Từ người phi công Mỹ đầu tiên bị bắt đến hôm nay đã gần 9 năm,một quãng đời người, dài lắm!

… Ngày mai, các trường Hà Nội khai giảng.

Hôm nọ, tôi đã thấy các em ở trường Hàng Than quét lá, thu dọn trường. Bọn con trai lấy chổi phi trên trời, như những chiếc máy bay.

Hôm nay, tôi thấy học trò Chu Văn An đến trường dọn dẹp, trở về, các em lại chui vào cái bể nước giữa vườn hoa ( nay là vườn hoa Tây Hồ ) rửa ráy.

Những em bé đi đường bây giờ, sao không thấy vẻ thư thái, như lũ chúng tôi hồi nhỏ. Các em băm bổ vội vã. Mấy em con trai ra đường, gạ chúng tôi đèo xe hộ. Vẫn còn dấu vết ngày hôm qua, thời đi sơ tán.

Thư, em tôi, kể trường nó chỉ lớp 10 là được ưu tiên bàn ghế. Lớp 9, lớp 8 thiếu. Một số lớp học sinh lại phải lấy loại bàn ghế nhỏ chỉ thấy ở các vùng quê.


Buổi tối, lâu lắm mới mò đi xem nhờ Vô tuyến truyền hình. Một chương trình ca ngợi đất nước. Và một người con gái, mà bây giờ mọi người đều nghĩ là tiêu biểu cho Hà Nội. Cô hát bài Đường chúng ta đi.

Bài này, có lúc, do một chị diễn viên cũ hát. Chị là một người không đẹp, nhưng tiếng lại đẹp. Chị hát nhiều trên đài. Trong tiếng hát của chị, ra một người từng trải. Và một đất nước từng trải.

Đằng này, người diễn viên non dại và qua giọng cô, người ta lại nghĩ về một đất nước trẻ trung.

Đất nước là tất cả những cái đó, là cả những người mẹ lẫn những em bé, cả tiếng phát thanh trên đài, tiếng xe bò kẽo kẹt triền miên, đất nước là mặt đường lép nhép, và có lúc bụi mù, là sắc vàng hoa cúc, là màu cờ đỏ trên những đống gạch đổ, là những cành xoan đầu xuân chỉ còn những cành, nhưng đã chớm những chồi non — đất nước là có cả lụi tàn và hy vọng!

Chỉ nghe đài phát thanh cũng đủ hình dung những đổi mới đến với Hà Nội. Nhiều bài hát cũ được hát lại. Những người lớn tuổi nhớ đến hoà bình lần trước, cuối 1968. Lần trước, ai cũng nghĩ chiến tranh hết hẳn, thì chiến tranh quay lại . Lần này, mọi người cứ nơm nớp — biết đâu hoà bình lại bền lâu!

Dạo này, tôi và bạn bè của tôi thường hay nói đến tính cách người Việt Nam. Có một cái gì ở trong đó, mà chúng tôi cảm thấy cần nhìn thẳng vào, cần giải thích.

Người Việt Nam là hời hợt hay sâu sắc? Người Việt Nam dũng cảm, nhưng dũng cảm như thế nào? Người Việt Nam nhẫn nhục. Người Việt Nam cần cù v.v…. Có một cái gì gọi là ý chí?

Người nước ngoài ca ngợi Việt Nam nhiều quá. Đất nước thật sự vinh quang. Hình như đối với một số ai đó, vinh quang chỉ là những hư danh. Mỗi người đang sống hết sức nhọc nhằn, có thể nói là thân tàn ma dại nữa.

Nhưng tận trong mỗi người, còn đầy hy vọng.

Khi tôi nói phải  biết trông mong ở tương lai, người ta bảo: Tất cả mọi người, đều là những người của ngày hôm qua, hy vọng sao được. Nhưng khi tôi cũng chán ngán, thì mọi người lại bảo: Không, cũng không biết đâu mà ngờ.

Một trong những sức mạnh của ngôn từ là nó thay đổi khá tương ứng theo thái độ của người ta. Nó thông tin khá chính xác. Ví như hôm trước, người ta gọi là giặc lái, hôm sau, người ta gọi là nhân viên quân sự. Người ta thân thiện với kẻ mà hôm qua được mệnh danh là kẻ thù. Và tất cả đều có lý của nó! Và điều duy nhất có thể rút ra là mỗi kiếp người quá ư bé nhỏ, hiện thực thì lớn lao, quá ư lớn lao. Đôi lúc, tôi oán trách, sao tôi lại ở vào cái ngành có khả năng quan hệ rộng như văn chương, để lúc nào tôi cũng bị ám ảnh bởi cái ao ước này– ao ước nắm bắt tất cả.

Chiến tranh có cái gì đó, đồng nhất với socializm. Sự san bằng tất cả. Nhưng mặt đất thì không còn bằng bặn. Và bây giờ hoà bình thì từ đấy, người ta lại phải xây dựng lên một cái gì khác. San mặt bằng rồi mới có thể làm mọi việc khác. Chính với việc san bằng, chúng ta nhận ra thêm nhiều tội ác kẻ thù. Với việc san bằng, lại thấy thêm những di luỵ thời chiến.

Granitxy voiny ? Ranh giới của chiến tranh, có cái đó không? Chẳng lẽ lại không có! Chắc chắn chiến tranh không động vào được một thứ, đó là sự sinh sôi. Chiến tranh như những chiếc ô tô vận tải. Đi trên đường phố, tôi sợ hãi vì lúc nào cũng thấy những chiếc ô tô, ô tô sau lưng, ô tô trước mặt, ô tô hung dữ lao trên đường, ô tô bất cần công việc, chỉ trừ việc của nó. Tôi nhớ tới những đoàn xe hoả hiền hoà và đầy năng lực của thời bình. Tôi yêu những nền nếp. Tôi cũng yêu những tập thể. Những chiếc ô tô, nó chính là những con người trong chiến tranh, những con người hung dữ, mải miết vì những mục đích xa. Thật là kỳ lạ, đất nước như một con người rút ruột ra, làm việc gì đó, một con người mà da thịt xanh xao nhưng bộ ruột thật vĩ đại. Nhớ Vinh, thành phố đổ nát, đường phố bụi bậm, bẩn thỉu, những con người lầm lụi đi trong mưa gió. Nhưng những đoàn xe cứ lao đi mải miết, trên xe là bao nhiêu giá trị, bao nhiêu là của cải.

Ở đường Phan Đình Phùng, các gia đình ra nậy hố cá nhân lên, không biết để làm gì. Tôi chợt nhận ra các hố thường nêm rất chặt bằng những gạch củ đậu.

Có lẽ một chủ đề mà văn học đáng nhẽ có thể làm được là: chiến tranh đến với tất cả các gia đình, chiến tranh đến với tất cả các phần việc.

12/2
Ngày khai trường. Những cố gắng lấy lại nền nếp. Học sinh đeo khăn mang cờ, đứng xếp hàng.

Học sinh đi diễu chung quanh phố. Đón học sinh lớp 1, học sinh lớp 4 cầm cờ ra đứng hai bên đường từ cổng trường vào. Bánh pháo đốt, lại tắc, lại đốt. Những cô giáo đứng vón vào nhau. Học sinh nghịch, lại chơi cảnh lấy chổi phi lên trời, giả làm máy bay.

Sân trường cũ trong thời gian chiến tranh biến thành nơi để gạo. Trấu rắc khắp nơi.Trước ngày khai giảng, nhà trường mới kiên quyết đuổi kho gạo đi, người ta phải dỡ tạm mọi thứ ra sân. Buổi sáng, xe bò vào chở các thứ. Có tiếng ai kỳ kèo: Bò nó ỉa… Ông xe bò cãi, người cũng phải ỉa, nữa là bò. Xe cứ đi nghênh ngang vào trường. Xe đi đến đâu, trẻ xô theo đến đấy. Nhiều đứa trẻ còn nhảy lên xe nghịch. Để chờ đến khi bò có quay lại, chúng nó lại rạt ra.

Chưa hết ô tô, giữa lúc học sinh lớp 1 đi vào giữa những cờ sao rủ bóng của học sinh lớp 4, thì ô tô vào. Ô tô phải đợi đấy cái đã.

Không biết bao giờ những đứa trẻ này lại có thể nói: Ngày khai trường của năm lớp 1 của tôi là ngày còn đang dọn dẹp những dấu vết chiến tranh. Trường dột. Cầu thang hỏng. Nền sàn đầy trấu. Các cô giáo chúng tôi gày guộc, vẫn cố ăn mặc một cách mô đéc. Nhưng chúng tôi đã có hoà bình. Ngày hôm nay là ngày tên tù binh Mỹ đầu tiên về nước. Tiến sĩ H Kissinger đang ở Hà Nội. Trong các thông cáo, văn kiện, mối quan hệ Việt Mỹ được dùng kèm theo những chữ: thẳng thắn, thân thiện.

Hà Nội, thành phố của trẻ con, thành phố của bụi. Thành phố của xe đạp. Thành phố của tiếng ồn.

Tôi cảm thấy phải có cách nào đó, để nói về Hà Nội. Những quy luật nào của cuộc sống thấy rõ nhất ở Hà Nội – Quy luật về tài năng? Quy luật về sự chọn lọc? Quy luật về sự đa đạng?

Tại sao người ta viết quá ít về Hà Nội? Phải chăng điều đó chỉ chứng tỏ tính chất tỉnh lẻ của nền văn học này.

15/2
Ng Khải: Thật làm nhà văn có lúc rớt nước mắt. Hôm nọ, vào trong Cục, vừa thấy tay Bồng, lão vỗ vai mình, thế nào, nghe nói cậu sắp đi đấy phải không? Ý lão nhắc chuyện đi chiến trường. Cái vỗ tay thật nhẹ mà mình cứ thấy sụn cả lưng. Một giọt nước mắt cứ định vỡ ra. Thấy như là thuở bé bị bêu nhục. Mình là cái thân phận gì, lão ta là cái gì, nghĩ cứ thấy nao nao cả lòng.


8/3
Một dịp khác, vẫn tôi và ông Khải:

- Hôm nọ, Bằng Việt nó nói với tôi, sao mày buồn thế. Trông ông Khải kia, ông ấy cứ nhơn nhơn ra.

- Đúng, bên Hội nhà văn, các ông cũng lạ cho tôi, lúc nào cũng nhơn nhơn ra. Nhưng mà nói thế thôi, chứ lúc này ai chẳng buồn. Buồn hết. Lúng ta lúng túng thế này, ai biết làm gì được. Văn chương là phong cốt của cả một dân tộc. Lúc này mà văn chương không thấy hé răng cái gì, thì tức là có chuyện rồi. Không trước thì sau, có chuyện thôi.

Nhưng tôi khuyên ông, lúc này nên ít đi chơi thôi. Cái lúc nhốn nháo này, ông xem, dễ vạ mồm lắm.



Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn