Trở lại với các bài báo Tết đã viết
Những dòng nước ngược
Chuyện buồn giữa đêm vui là tên một thiên truyện của Nam Cao trong
đó có nhân vật chính sau khi mời họ hàng đến ăn bữa cơm cưới, kể lại cho vợ
nghe về một người cô hôm ấy không có mặt.
Để nội dung cụ thể sang một bên, hãy nới tới
cái ý nghĩa khái quát nằm sau đầu đề thiên truyện: cuộc đời chung quanh chúng
ta chẳng bao giờ trọn vẹn. Bởi vậy, hình như trong những ngày vui, những người
không quá vô tâm, những người có lương tri thường không khỏi nhớ tới những gì
chưa được hoàn thiện, những bất công khổ sở còn đầy rẫy quanh mình. Cái buồn ở
đây không phải bi quan, càng không phải để làm dáng. Ngược lại, nó là tình cảm
tự nhiên ở những con người lành mạnh, có yêu cầu cao về đời sống, và nhạy cảm
với những gì đang diễn ra chung quanh.
Nếu không phải tất cả, thì một số nhà văn Việt Nam, nhất là
nhưng cây bút hàng đầu của nền văn học dân tộc trong thế kỷ này – Nguyễn Công
Hoan và Khái Hưng, Thạch Lam và Nguyễn Tuân, Tô Hoài và Thanh Tịnh… đã nghĩ như
vậy. Khá nhiều thiên truyện mà họ đã viết nhân những ngày tết và nội dung có
liên quan đến tết, lại là những truyện gợi cảm giác buồn bã.
Người ngựa và ngựa người của Nguyễn Công Hoan có hai nhân vật chính thì một là
anh phu xe đói khách, hai là cô gái làng chơi ế hàng, không có tiền cũng
cứ gọi xe để dử mồi. Cuối cùng cả hai đều thất vọng. Cô ả trốn biệt. Anh phu xe
bị quỵt tiền. Giữa lúc ấy “tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch
toạch”.
Tối ba mươi của
Thạch Lam được xây dựng từ một cảm hứng hoàn toàn khác, song cũng buồn không
kém. Cả hai nhân vật chính “sống đời truỵ lạc” (chữ của tác giả) song thực ra
họ đều là người tử tế, do sa cơ nhỡ bước mà rơi vào vũng bùn. Đêm tất niên,
không có khách lai vãng, hai người càng cảm thấy lạnh lẽo. Họ mua các thứ về
thắp hương, cúng tổ tiên, cha mẹ và tủi về thân phận của mình, ôm nhau khóc.
Ngày tết là ngày của hy vọng. Các nhân vật chính trong thiên
truyện mang tên Đón khách của Nam Cao cũng không nghĩ khác.
Ông bà đồ Cảnh ở đây chỉ mong kiếm cho đứa con gái của mình một tấm chồng sáng
giá. Họ nhịn nhục đi vay tiền làm bữa cỗ thật to chờ anh chàng rể tương lai.
Nhưng chính lúc đó, họ nhận ra sự thật: anh chàng Sinh, mà họ định bẫy, chỉ
buồn tình đùa bỡn gia đình họ cho vui. Anh đã có đám khác. Điều oái oăm là ở
chỗ tin thất thiệt đổ ụp xuống gia đình ông đồ Cảnh giữa ngày mồng hai tết.
Có thể kể thêm ra đây nhiều thiên truyện tương tự ở đó, cái nền
xảy ra câu chuyện là những ngày xuân chỉ khiến cho những nỗi đau khổ của các
nhân vật thêm nổi bật. Thanh Tịnh từng miêu tả cái vui gượng gạo trong đêm giao
thừa của những hành khách trên một chuyến xe lửa cuối năm. Khái Hưng trong một
thiên truyện pha hồi ký, kể lại cảnh mình bị khám nhà giữa đêm ba mươi tết (ấy
là hồi ông còn làm đại lý xăng dầu ở Ninh Giang).
Trong Quê người của
Tô Hoài, có một nhân vật tên là Thoại. Do quá nghèo túng, giữa đêm tất niên,
Thoại xoay ra đi lùng chó, những con chó sợ pháo chạy lung tung giữa đồng.
Nhưng cái mưu đồ ấy cũng không thành. Thoại bị một trận đòn nhừ tủ, đến nỗi xấu
hổ quá, dắt vợ con bỏ làng ra đi.
Tóm lại, “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết –
Giàu có đến ba mươi tết mới hay” – hình như trong những ngày tết, ai đã vui lại
vui hơn, ai đã buồn lại càng buồn hơn. Ngày xuân ngày tết chỉ làm rõ hơn cái
tình thế mà mỗi người sẵn có.
Và chỉ cần để ý kỹ chung quanh một chút thôi,
người ta sẽ nhận ra ngày những cái tết eo hẹp, đạm bạc của những nguời quanh
mình để không bao giờ đẩy sự vui vẻ tới mức quá trớn – hình như các nhà văn
muốn nói thêm với bạn đọc điều ấy.
Thế cái quy luật này có tồn tại trong thơ, như đã tồn tại trong
văn xuôi tiền chiến? Câu trả lời: cũng gần như thế! Cố nhiên, thơ vui ngày tết
thì nhiều rồi, nhưng thơ buồn cũng không phải không có.
Lấy một ví dụ: Có lần,
các nhà sưu tầm thơ Nguyễn Bính đã chọn những bài thơ ông viết về mùa xuân và
cảnh tha hương làm thành một tập riêng gọi làXuân tha hương, trong đó,
riêng những bài đầu đề có chữ tết, chữ xuân đã đến hơn chục bài: Xuân
về, Vườn xuân, Thơ xuân, Xuân thương nhớ, Hội xuân, Mùa xuân, Rượu xuân, Nhạc
xuân, Tết của mẹ tôi, Tết biên thuỳ…
Những người quen biết Nguyễn Bính
trước 1945 thường kể ông là người duy nhất hồi ấy có thể sống được bằng nhuận
bút thơ. Vậy nên có thể dự đoán khá nhiều bài thơ nói về xuân về tết này được
làm theo com-măng của các báo. Mặc dù được làm theo đơn đặt hàng, đây vẫn
là những bài thơ khá hay.
Có điều, nếu thời gian mới làm nghề, thơ Nguyễn Bính
về xuân và tết thường là những bài thơ vui, thì về sau, âm hưởng chính lại là
buồn bã.
- Em đi dệt mộng cùng
người
Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh
Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh
- Dang dở một thân nơi đất khách
Tết này ta lại ngắm hoa suông
- Huyền Trân Huyền Trân Huyền Trân ơi!
Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi
Giờ đây chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi.
Mùa xuân mùa xuân mùa xuân rồi
Giờ đây chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi.
Những câu thơ vui, nhí nhảnh của Nguyễn Bính viết về xuân
kiểu như Mùa xuân là cả một mùa xanh - Trời ở trên cao
lá ở cành… được nhiều bạn đọc trẻ tuổi ghi nhớ. Nhưng cũng có phần chắc
chắn không kém là những câu thơ xuân kể lại cảnh cô quạnh, đơn độc của tác giả
cũng đã là bàu bạn của lớp người từng trải, hơn thế, là lời an ủi cho những
người cùng cảnh ngộ.
Bài viết này mượn nhan đề một tập thơ của Tú Mỡ. Điều may mắn cho
chúng tôi là đọc lại tập thơ trào phúng đó cũng có mấy bài viết về tết, mà cũng
là dòng nước ngược, với nghĩa: tuy tác giả không tả những cảnh buồn
đau thất vọng, song ông cũng không hùa theo đời, tô vẽ cảnh tết, mà lại nhìn
thấy trong ngày vui này những cái nhố nhăng nhếch nhác. Đây là một ví dụ:
Ghét tết
(thơ yết hậu)
(thơ yết hậu)
Thiên hạ sao ưa Tết?
Hẳn vì mặc áo đẹp
Tớ đây bảo Tết phiền
Ghét!
Hẳn vì mặc áo đẹp
Tớ đây bảo Tết phiền
Ghét!
Tiêu pha thực tốn tiền
Chè chén cứ liên miên
Hết Tết đâm lo nợ
Điên!
Mồng một đi mừng tuổi
Chúc nhau nghe inh ỏi
Toàn câu sáo rác tai
Thối!
Mừng tuổi đèo phong bao
Năm xu lại một hào
Ai sinh cái lệ đó?
Hao!
Kiết xác như vờ rồi
Còn ngông đốt pháo mãi.
Pháo kêu: Tiền hỡi tiền
Dại!
Cố nhiên, nghĩ như Tú Mỡ cũng có phần cực đoan. Sau một năm lao
động vất vả, chúng ta có quyền vui tết. Điều có thể chia sẻ với Tú Mỡ trong
trường hợp này là: có được một cái Tết cho hợp lý, có ý nghĩa mà cũng là có văn
hoá- cái đó không phải dễ.
Đã in Chuyện cũ
văn chương 2001
Một cách đón tết đầy thách thức
Một cách đón tết đầy thách thức
Đã gọi là nhà văn, xa gần ai
chả viết về đời sống dân tộc, song trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, nếu cần
tìm một người biết từ những mảng sống, những thực tế ai cũng sống ấy, đưa lên
thành nề nếp, thành một cái gì thuần thục kỹ lưỡng, tóm lại là biết xem xét đời
sống ở bình diện văn hoá, thì người ta trước hết nghĩ đến Nguyễn Tuân
(1910-1987).
Cách sửa soạn cho
một ấm trà ban mai hay cái nghi thức thiêng liêng mở đầu cho một ngày.
Những đắn đo bàn
bạc trước khi làm mấy cái đèn trung thu hay vẻ trịnh trọng trong việc đón cái
Tết vốn chỉ được coi là dành cho con trẻ.
Rồi ý nghĩa tìm thấy ở trò chơi thả thơ đánh
thơ, quan niệm về nhân cách qua một kiểu viết chữ…
Rồi đức hy sinh của
một người chị cho một nguời em trai, niềm tự tin hay những kiêu hãnh chính đáng
của một vị quan có học…
Bao nhiêu nếp sống
hàng ngày đã được Nguyễn Tuân ghi nhận.
Thì dĩ nhiên là những
ngày Tết nguyên đán cũng đã để lại vang và bóng của nó trong tâm trí Nguyễn
Tuân, dù nhiều khi chỉ là những vang bóng thoáng qua.
Lấy ví dụ như ở thiên truyện Hương
cuội in trong Vang bóng một thời. Đặt bên cạnh những Chém
treo ngành hoặc Ném bút chì có gươm khua, có máu chảy
(dù là tất cả đã được làm một cách rất tài hoa), thì Hương cuội giống
như một sự dềnh dàng cố ý cốt cho thấy cách đón xuân của cổ nhân cầu kỳ mà cũng
thanh đạm đến như thế nào.
Này là cảnh chuẩn bị
Tết ở nhà cụ Kép: trong lúc đám dâu con đàn bà ngồi lau lá dong và làm bếp, còn
lũ trẻ lo đánh bóng đỉnh đồng, lư hương, thì ông cụ chỉ loanh quanh bên cái
chậu hoa, và để hết tâm trí tới việc sửa soạn bữa rượu Thạch lan hương.
Quả thật, cái cảnhuống rượu nhắm với đá
cuội tẩm kẹo mạch nha là một nét lạ của văn hoá Tết cổ truyền mà có
thể đoán là khống mấy người thuộc lớp hậu sinh chúng ta được biết, và những
trang văn Nguyễn Tuân thật đã có vai trò của những thước phim quay chậm để ghi
lại tư liệu quý.
Sau Vang bóng một thời xưa đâu Nguyễn Tuân còn định viết Vang bóng một thời Tây. Rồi cái ý
định ấy, cũng như nhiều dự định hay ho khác, đành xếp xó. Nhưng đây đó, nhà văn
thích phác hoạ lại nếp sống một thời và mang lại cho nó vẻ thanh lịch của một
hành động văn hoá, nhà văn ấy cũng đã kịp ghi lại vài nếp sống của xã hội ta
khi chuyển sang thời Âu hoá, trong đó có cảnh đón Tết ở các đô thị.
Đọc Một người
cha về ăn tết (in trongTuỳ bút I) người ta biết rằng vào những
năm ba mươi của thế kỷ này, thành phố Hà Nội vẫn chỉ là nơi làm việc của nhiều
công chức, chứ không phải gia hương của họ.
Cuối tháng chạp âm
lịch, hai mươi, hăm lăm gì đó – tuỳ cảnh tuỳ người – nhiều cặp vợ chồng giao
nhà cho đầy tớ, rồi kéo con cái về quê ăn tết. Có thể là ở quê, họ lại sẵn sàng
ngồi bên nồi bánh chưng cổ truyền suốt đêm để sống lại cái nền nếp vốn có của
cha ông. Còn ở thành thị, nơi họ làm việc, thì cái nếp sống Tây phương cũng đã
len vào thành những phong tục mới, nhuần nhị và thành thục. Trông nhà trong mấy
hôm ấy, một trong những việc đám thằng nhỏ phải làm là để cái đĩa pha lê ra bàn
giữa nhà cho bạn bè của chủ chúng (mà chúng thường gọi là cậu mợ) đến đặt danh
thiếp.
Tuy nhiên cái độc đáo của Tết ở văn Nguyễn Tuân
chưa phải là ở những mảng sống được ông miêu tả ghi chép như vậy. Bởi lẽ, sự
quyến rũ của văn ông là ở cái hình ảnh bao trùm của con người lãng tử, nên cái
ấn tượng về Tết khiến người ta nhớ hơn cả cũng là cách xử sự kỳ lạ của chàng
Nguyễn và những phiên bản của chàng vào những ngày mọi người khép mình chờ đợi.
Mặc dù biết rõ là Tết sắp đến nhưng
Nguyễn của chúng ta vẫn mải mê với việc vui chơi và sẵn sàng lang thang ở những
chốn đâu đâu mà không hề đoái hoài tới việc tận hưởng mọi thú vui thông thường,
kể cả việc về nhà sum họp cùng vợ con.
Trong Những đứa con hoang, người
ta gặp cái cảnh Nguyễn với hai người bạn xuống xóm vào một
ngày tất niên, khi các nhà cô đầu tịnh không ai đi hát, và từ các bà chủ đến
các cô con gái trong nhà có nghĩ gì, thì cũng là nghĩ đến chuyện làm ăn trong
năm mới.
Lại như câu chuyện Một người
cha về ăn Tết. Cái việc tốt đẹp nói ở đầu đề thiên tuỳ bút, thực ra
phải đâu là nằm trong dự định của Nguyễn mà chỉ là kết quả của sự tình cờ. Đang
ở nhà bạn, định sống thêm một cái Tết tha phương, chợt trông thấy mấy đôi giày
trẻ con, thế là lòng nhớ nhà của Nguyễn thức dậy và chàng mới ra ga, về quê
trong chuyến tàu rạng sáng ba mươi.
Tóm lại, sau trước, Nguyễn
vẫn là Nguyễn, Tết chẳng qua là một dịp để con người ấy tiếp tục mài sắc cá
tính của mình, càng mang tiếng chơi ngông, trêu ngươi mọi người, càng lấy làm
đắc ý. Giữa cái xã hội Âu hoá nhố nhăng, để khẳng định cá tính, Nguyễn vẫn chỉ
có một con đường độc đáo để đi, ấy là con đường đã in dấu chân của nhiều bậc
lãng tử cuối mùa, mà ông Cử Hai trong Một cảnh thu muộn là ví
dụ.
Vâng, ông Cử Hai
ấy cũng là một người đem cái tài hoa ra để đùa với cuộc đời. Đi dạy học khắp
nơi với ông là một thứ “đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ
tích”. Bởi vậy mới có cảnh “gần ngày Tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong
sổ đồng môn, chỉ khổ lên vì đi tìm thầy”. Giữa ngày vui của mọi người, cái con
người nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh
ấy sẵn sàng ẩn trong một mái đình vắng nào đó, để gọt cho hết một lắp thuỷ
tiên.
Người ta có thể không sống theo và trước
tiên là không thích thú với cách sống cao ngạo trái khoáy này, song phải công
nhận người giữ được cái đạo đó phải là người có cuộc sống nội tâm phong phú,
nội lực vững vàng, trong khi biết tìm cho mình những thứ thức ăn tinh thần
không giống một ai, họ thật đã có cuốc ống vượt lên cái phàm tục mà kẻ sĩ xưa
nay hằng ao ước.
Đơn độc ngay trên quê hương mình,
trốn tránh mọi người, chỉ lấy sự lang thang chỗ này chỗ nọ làm vui, những tưởng
ở Nguyễn Tuân đã chết hẳn con người bình thường.
Nhưng không, đến khi có dịp xa quê
thực sự, thì Nguyễn Tuân lại có một cái Tết thật buồn, đến mức người ta phải tự
hỏi không biết đâu mới là bản chất thực của cái con người phiền toái đó.
Trong Một
chuyến đi ông đã kể lại kỹ lưỡng nhiều chuyện liên quan đến cái lần
nhà tài tử nghiệp dư là ông, cùng với một số bè bạn, sang Hồng Kông đóng phim.
Cảnh ông ăn Tết ở xứ người chính là xảy ra vào đầu năm Dần đó (1939).
Hiện lên trước mắt chúng ta là
một bức tranh hai màu đối lập.
Một bên là cảnh dân địa phương náo
nức vui thú. Những tràng pháo dài hàng vạn quả đua nhau nổ dữ dội. Những gốc
đào tươi tua tủa hoa nhạt và nụ thắm. Rồi đêm Hương Cảng đỏ rực hẳn lên với
phiên chợ Tết “như cảnh bài trí trong một truyện thần tiên hoặc trong Liêu Trai…”.
Một bên là cái tâm trạng buồn thiu
của người lữ khách cô độc, mắt mờ hồn mê, tiền không có, bạn không có, đi giữa
đường vui phải giơ tay nắm chắc lấy lòng can đảm của chính mình để khỏi chán
chường thêm.
Vốn là điều làm nên sự kiêu hãnh của người
lãng tử, sự khác người với Nguyễn Tuân trong những ngày Tết năm ấy chỉ còn là
một cái gì nặng nề, không sao chịu nổi. Trong lúc tỉnh táo, tác giả cảm thấy
rất rõ là mình đang đánh mất mình: “Tôi chiều nay hằn học với số phận, dám
cáu kỉnh với cả cuộc đời phiêu lưu mà xưa nay tôi vẫn ca ngợi. Chiều nay, tôi
cũng muốn vứt đi một cái gì”.
Chưa bao giờ như trong Một chuyến
đi, con người Nguyễn Tuân lại hiện ra yếu đuối đến thế, bất lực đến
thế!
Song cũng là một sự thực kỳ lạ: ấy cũng là
lúc Nguyễn đáng yêu hơn bao giờ hết. Sau cái lần vỏ ngạo ngược, ngông nghênh
hoá ra chàng Nguyễn vẫn rất mềm yếu, rất tình cảm, nghĩa là rất gần với mọi
người.
Có lẽ vì thế, chúng ta hiểu vì sao sau
này tỏng tiếng súng chiến tranh khi cùng một đoàn kịch đi suốt từ Hà Nôị tới
Nam Trung bộ, khi lội suối trèo đèo theo bộ đội đánh đồn, nhiều cái Tết trong
văn Nguyễn Tuân lại hiện ra với những nét vui vầy đầm ấm, và những ngày hoà
bình sau 1954, hầu như Tết nào ông cũng có những bài tuỳ bút vui Tết với mọi
người.
Vẫn với cách nói hóm hỉnh vốn có,
ông bảo rằng đó là những lần mình ngả từ vườn đào nhà ra mấy cành để góp mặt
với những ngày vui ở chợ hoa Hàng Lược. Một trong những bài tuỳ bút của Nguyễn
Tuân hồi ấy độ một cái tên khá lạ lùng Tôi bán năm cành hoa tết.
Vốn là bài Cùng đón tết với
ông Nguyễn
đã in trong Chuyện cũ văn chương 2001
đã in trong Chuyện cũ văn chương 2001