VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Nghèo nàn, đơn điệu ( tiếp theo bài sưu tầm đưa 10-3-2018)




  Văn hóa VN, thường mới được tìm hiểu và mô tả về phương diện tinh thần hay nói như  một thuật ngữ văn hóa học là “ phi vật thể”.
Bản thân tôi,  khi đọc lại tài liệu cũ, cũng chưa chú ý tới vấn đề ấy. Để bổ sung cho bài sưu tâp nghèo nàn hôm qua, xin bổ sung thêm mấy đoạn mà một số thương gia và giáo sĩ người nước ngoài nhận xét về cách sinh hoạt ăn ở của người mình, sau đó là một bài ngắn có tính tổng hợp của tôi.


1/

Trích từ sách  Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài của giáo sĩ Jerome Richard

Các "đô thị" - chỉ là để tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như  bắn tên có mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.

Người Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng. Ở đô thị càng đông, mạnh.
Các loại phương tiện giao thông
-      Ngựa: quan;
-      chân trần: dân;
-      cáng: nhà giàu, người có địa vị
Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị phá.

Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở Trung Hoa đã có lúa vụ  ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa.
Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị, khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.

  Cách cư trú, phong tục
Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.

Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là H'mông - VTNh)

Ăn mặc: không tất, không giày, không quần lót.
Giày dép là để phân biệt ngôi thứ:
- dân thường bị cấm.
- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép
- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.


Nhà tù
Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối, bùn, và rác. Thường xuyên là người sống chung với những xác chết bị thối một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.

 Nhưng đó là một nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.

 Xem đầy đủ bản ghi chép của tôi  về cuốn sách của  Jerome Richard trong bài
Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/01/xa-hoi-ang-ngoai-ky-xvii-xviii-duoi-con.html



2/

Trong cuốn Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài 1688, (bản của NXB Thế giới, 2006), một nhà thám hiểm người Anh là W.Dampier ghi lại một số nhận xét có liên quan đến các hạng người ở đô thị Việt thế kỷ XVII.
Đây là tầng lớp trên và bộ sậu của họ: “Những kẻ quyền quý thì tỏ ra kiêu căng, hách dịch và tham lam trong khi đám lính tráng thì hỗn xược.”
Đây là những kẻ dưới đáy: “Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp làm cho nhà buôn và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về đêm“.
Theo W. Dampier, sự hư hỏng của con người bắt đầu bằng sự kém cỏi trong điều kiện sống mà người ta không cách gì thay đổi.
Nhà cửa người Việt ngay ở Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà nhỏ và thấp. Mấy tấm phên che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí.
Theo lái buôn người Anh, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường khoét ngách.

3/

 Bài tổng hợp của tôi  

    Sự đơn điệu nghèo nàn là cảm giác chính còn lại trong Nhất Linh sau khi dự Hội chợ hàng VN 1934 mở ở Nhà Đấu xảo Hà Nội

    Trong bài tường thuật trên Phong Hóa số ra 30-11-1934, người đứng đầu văn đoàn Tự Lực viết :”Mấy gian hàng Hải Dương Nam Định vẫn như mọi năm không có gì tiến bộ.Thăm gian hàng Trung Kỳ, người ta cảm thấy như sống lùi lại mười năm trước bởi chỉ có ít đồ gỗ nét chạm non nớt.Đồ đồng của ta có lẽ nghìn vạn năm nữa không thay đổi. Từ cái thau cái mâm cho đến cái đỉnh thứ nào cũng nguyên như cũ, hình như đổi mới nó đi là một cái tội vậy. Đồ sứ Bát Tràng men trông cũng khéo, chỉ tiếc rằng kiểu không đẹp. Phần nhiều là bắt chước Tầu.“.

   Những nhận xét này có thể áp dụng cho toàn bộ thế giới đồ vật mà Việt sáng tạo ra để phục vụ đời sống của chính mình. Một đôi dép để đi ư ? Ở Bắc bộ, nó chỉ là một chiếc mo cau hoặc miếng da, có thắt một nút trồi lên vừa để xỏ một ngón chân. Trong khi người dân nông thôn xưa chỉ đi chân đất thì một đôi dép như thế còn là xa xỉ, và chỉ những dịp hội hè người ta mới dám sử dụng. Một cái diều ư? Chỉ là mấy tờ giấy phết vội trên mấy nan tre. Một cây sáo ư, chỉ là một ống tre có khoét mấy lỗ sơ sài. Nếu chúng ta biết rằng trên thế giới này, không chỉ Trung Quốc Nhật Bản mà cả các nước phương Tây những cái diều bộ sáo có cấu tạo phức tạp tinh vi như thế nào thì người ta  phải tự trách rằng sao  dân mình dễ bằng lòng với những gì làm ra,tức dễ dừng lại trên đường sáng tạo đến thế.

   Thời nay, khi làm hàng xuất khẩu, người mua các nước cũng thường chê hàng Việt mẫu mã đơn giản, có học lỏm được cái gì của người khác thì cũng chỉ loay hoay ở vài cái lặt vặt mà không biết khai thác hết những khả năng đa dạng có thể có. 

   Chẳng những chúng ta rất ít phát minh mà nhìn vào cái đã phát minh ra, thấy không vượt khỏi tình trạng bột phát ban đầu. Các ý tưởng không được hoàn thiện và đẩy tới cùng. Nguyễn Văn Vĩnh sớm nói thẳng là  trước khi học của nước ngoài, những cái nhà của chúng ta quá trống trải và chẳng có gì mà bầy, ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề, nếu cố trau chuốt thì lại phô ra một mỹ cảm cầu kỳ vụn vặt.

   Ở đồng bằng Bắc bộ, ngoài nghề trồng lúa nước, gần như không có nghề làm vườn. Các giống vật nuôi trong nhà không đặc biệt, như con chó Vịệt, đặc tính chính của nó là sự tầm thường. Không có con đường làng nào là thẳng, con đường nào cũng cong queo vẹo vọ.

  Tự bằng lòng với cuộc sống tự nhiên của mình ở các làng quê, người Việt gần như từ bỏ khả năng tổ chức lại cuộc sống một cách có suy nghĩ ở các đô thị.

   Cho đến cả trong cách tổ chức xã hội, trí tưởng tượng nghèo nàn cũng níu kéo chúng ta lại.

   Thần thánh trong các truyện thần thoại cổ tích của ta quá gần người và cũng nghèo như người, cả về vật chất lẫn tinh thần.

   Còn những ước mơ của chúng ta thì sao ? Ngày xưa, bao chàng trai bỏ làng ra đi chống ngoại xâm, rút cuộc “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa“ (thơ Nguyễn Đình Thi), mơ ước lớn nhất là quay về làng tiếp tục đi cầy và cưới được cô thôn nữ.

   Còn hôm nay, có một câu chuyện dân gian đang được lưu truyền rộng rãi. Một thanh niên Nhật hỏi người Việt cùng tuổi với mình là mơ ước gì thì được trả lời là mơ ước có cái Honda để đi, nhà có cái tủ lạnh  Hitachi, cái máy giặt Sanyo để dùng. Nói chung là ao ước dân Nhật xài đồ gì thì mình có đồ đó để xài.

   Còn người thanh niên Nhật khi được hỏi lại chỉ nói gọn một câu là ước sao giỏi giang hiểu biết để thực hiện được tất cả những ước mơ của các bạn Việt cùng tuổi.

   Câu thơ của Chế lan Viên “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp – Giấc mơ con đè nát cuộc đời con “ không chỉ đúng với con người thời tiền chiến mà đúng với người Việt gần như suốt thời quá khứ, không chỉ con người bình dân mà cả những tầng lớp tinh hoa.

Nguyên là bài “Một quan niệm đơn sơ về thế giới “, đã đưa ở đường link
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013/07/mot-quan-niem-on-so-ve-gioi.html


Mới hơn Cũ hơn