VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Vươn ra thế giới để trở lại phục vụ dân tộc mình tốt hơn!

Tìm hiểu về Việt Nam là nguyện vọng tự nhiên của bạn bè quốc tế. Không nên chỉ đặt vấn đề tự giới thiệu. Mà trước tiên nên hiểu rằng văn học Việt Nam chưa được thế giới quan tâm, lý do chính là chúng ta chưa có những tác phẩm đạt tới cái mà họ quan tâm, hơn thế nữa cần cho người ta buộc người ta phải tìm, phải chú ý, phải dịch. Khôn ngoan nhất là hãy lắng nghe tiếng nói chân thành của chính họ. Chỉ tinh thần đối thoại  mới làm nên khả năng tiếp xúc lâu dài.  
 Đọc thêm:  Bao giờ VN có giải Nobel văn chương - Nhờ hội nhập,một cuốn sách hay đã trở lại với bạn đọc


Quảng bá mình và đóng góp cho cái chung  
Ông đón nhận thông tin về Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam thế nào?  
Rất  phấn khởi! Bản thân tôi thường tha thiết với vấn đề hội nhập văn học. Đã là người cầm bút ai mà chả có mong mỏi có lúc được thấy tác phẩm của mình xuất hiện dưới một ngôn ngữ khác. Một dấu hiệu làm nên tầm cỡ của một nhà văn là khả năng họ đến với người đọc ở những xứ sở xa lạ. Vậy đây là một bước đi tự nhiên, nền văn học nào tác giả  nào cũng cần tính tới.
    Lâu nay ta đã dịch nước ngoài khá nhiều. Nhìn lâu dài  thì việc đưa các tác phẩm văn học Việt Nam giới thiệu với bạn bè quốc tế là cách chúng ta, trong chừng mực nào đó, trả nợ, đóng góp ngược lại cho nhân loại. Một hội nghị như thế này là để đi dần tới mục tiêu đó. Đặt tác phẩm của mình trong con mắt phán đoán đánh giá của bè bạn còn là cơ hội tốt nhất để hiểu thêm văn học mình, chỗ còn xa cách của văn học mình so với thế giới,  rồi tìm dần cách nâng mình lên thỏa mãn cả mình mà cũng là thỏa mãn đòi hỏi của họ. Vươn ra thế giới để trở lại phục vụ dân tộc mình tốt hơn. Đây có thể là con đường vòng, nhưng trong tình hình hiện nay,  không có con đường nào khác.
      Trong kinh tế, ta đang lo làm hàng xuất khẩu. Để có ngoại tệ. Để quốc gia giàu có hơn. Song không nên quên một tác động nữa: việc này giúp cho trình độ sản xuất của mình ngày một hoàn thiện, và trình độ bộ phận làm hàng phục vụ nhu cầu trong nước cũng vì thế mà được nâng lên một bước.  Một quá trình tương tự cũng sẽ xảy ra trong văn hóa.   
Bước đường đã qua  
Thực tế, không phải bây giờ chúng ta mới đặt vấn  đề quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài?
     Ngược lại lịch sử, sẽ thấy từ sau 1945, chúng ta đã lo tới chuyện quảng bá đối ngoại khá sớm. Tôi xin phép không nhắc lại những thành tích nhiều người đã nêu, mà chỉ muốn nhắc một ít kỷ niệm riêng. Một người sớm hiểu vai trò của việc quảng bá này là Nguyễn Đình Thi. Ngay từ 1950, tại Đại hội Liên hoan thanh niên, sinh viên thế giới, ông Thi đã dịch bài thơ Thăm lúa của Trần Hữu Thung để giới thiệu với bạn bè quốc tế. Bản thân ông khoảng 1967  từng vui vẻ khoe với anh em viết trẻ chúng tôi lúc đó rằng tiểu thuyết Mặt trận trên cao của ông  được dịch sang tiếng Pháp, xem đó là cái đích mà lứa sau cũng có ngày phải đạt tới. Xuân Diệu mỗi khi nói về nghề, rất tự hào lưu ý chúng tôi là trong 100 bài thơ tình thế giới có bài Thơ Duyên của mình.
   Tuy vậy, phải nhận lâu nay việc quảng bá tác phẩm văn học Việt Nam tới độc giả nước ngoài không được đặt ra đúng với quy mô, tầm vóc của nó, thậm chí có lúc chúng ta còn e dè bảo nhau lảng tránh. Năm 1995, tại một hội nghị văn học, tôi có tham luận, đặt vấn đề chúng ta phải hội nhập để tránh tụt hậu, phải hướng tới bạn đọc nước ngoài, tính xem họ cần cái gì, ta cần viết sao để họ nghe được hiểu được, muốn chia sẻ thêm với chúng ta. Lúc đó vấn đề hội nhập chưa đặt ra, nên nhiều người không đồng tình với tôi, cho rằng chỉ cần viết cho chúng ta thôi, không viết vì ai cả. Rồi mọi chuyện cũng cho qua, cho tới hôm nay.
        Có thể cắt nghĩa sự lảng tránh đó như thế nào?
       Vì có một thời gian dài chúng ta yên lòng trong thế tự cô lập.
       Tình hình giao lưu trao đổi văn hóa trong xã hội hiện đại rất nhộn nhịp, thậm chí có những nước, phần văn học dịch át cả phần tự sáng tác. Họ chỉ lấy tiêu chuẩn văn học làm trọng, cái gì họ chưa làm được thì lấy của người khác, một khi nó đã tồn tại dưới dạng ngôn ngữ nước họ, thì tức là đã trở thành gia sản của họ, và các dịch giả ở các nước ấy nghiễm nhiên là những nhà văn sang trọng chứ không phải một thứ “con nuôi” của nền văn học như ở ta. 
      Chúng ta  bị chi phối bởi một quan niệm gần như ngược hẳn lại. Gọi là dịch nhiều , nhưng thật ra chưa phải đã chọn được những cái đáng dịch nhất. Đáng sợ hơn là tình hình dịch theo lối đua đòi, thấy người ta đồn đại thì dịch; cái dở của thiên hạ thì dịch ào ào, cái hạng nhất của họ chỉ dịch nhỏ giọt hơn nữa dịch sai, không hiểu cũng cớ dịch bừa. Nhất là không biết học hỏi những cái đã dịch đó để nâng cao trình độ sáng tác trong nước.
       Xuất phát từ nhu cầu phục vụ xã hội những năm chiến tranh và hậu chiến, ta chỉ lo viết cho ta theo những tiêu chuẩn riêng ta. Đến lúc thấy cần ra với thế giới thì đã quá muộn. So với thế giới quá chênh.  Lúc này có muốn họ dịch, họ cũng không dịch.
      Do viết kém mà thiếu giao lưu, do thiếu giao lưu nên viết kém, cứ cái vòng tròn quanh quẩn đó mà kéo. Cũng do sự thiếu giao lưu mà ở nhiều  người nẩy sinh tâm lý co lại, tự minh bằng lòng với mình, mẹ hát con khen hay. Thậm chí có người tuyên bố rằng ta chỉ cần ta chứ không cần đến ai khác.
       Việc quảng bá ra thế giới đã có mang lại lợi ích cụ thể ?
      Tôi chỉ nêu một ví dụ. Cùng với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một trong những hiện tượng văn học quan trọng nhất của văn học ta thời hậu chiến. Vậy mà một thời gian dài, tác phẩm này bị rẻ rúng ghẻ lạnh. May mà nhờ có bạn bè nước ngoài người ta tìm đọc, người ta đòi hỏi, rồi dư luận trong nước mới tìm lại đứa con lưu lạc. Qua đây thấy nhờ ra với thế giới mà chúng ta sẽ hiểu thêm chính chúng ta hơn.       
Mạnh về  dân tộc, yếu về nhân loại
   Có ý kiến cho rằng sở dĩ  văn học VN không đến với bạn đọc nước ngoài vì tiếng Việt quá khó,  ta không  tìm được người dịch giỏi.
    Theo tôi không hẳn vậy. Hiện ngành nghiên cứu về tiếng Việt ở ta chưa tốt, chưa  giúp bạn bè có thêm công cụ giao tiếp. Nhưng cái đó không phải là lý do chính. Tôi có một kinh nghiệm là khi viết, có một từ nào không hiểu, thường là đi tra các từ điển Việt - Hán, Việt – Pháp, lại thấy có hiệu quả hơn là tra từ điển Việt – Việt. Nghĩa là theo sự hiểu biết của tôi, hiện có nhiều người nước ngoài còn hiểu sâu tiếng Việt hơn cả cá nhân nhiều người chúng ta.
       Khi cảm thấy người nước ngoài đối xử lạnh nhạt với tác phẩm của mình—do đó không dịch --, lại có nhà văn e sợ rằng do mình viết cao sâu quá tinh tế quá, họ không hiểu nổi. Thực tế ngược lại. Để tôi kể bạn nghe một chuyện thế này. Khoảng 1986-89 sang Moskva giữ chân biên tập sách ở nhà xuất bản Raduga, tôi thường phải làm việc với các đồng nghiệp người Nga, trong đó có nhiều người rất giỏi tiếng Việt. Năm đó, tờ báo Việt Nam X. cũng có đại diện ở Nga,  lo việc in báo mình ra tiếng Nga để quảng bá. Biên tập viên tờ này nhờ tôi liên hệ với ông bạn người Moskva, nhờ dịch hộ bài vở các số từ Việt sang Nga, hứa là công xá khá cao. Anh bạn của tôi từ chối. Đại ý anh bảo chính các bạn viết tiếng Việt thường quá cẩu thả, tôi nhận dịch ra tiếng Nga rất mất thì giờ, mà lại còn phải chỉnh sửa, cho nó nghe được, chứ cứ để như nguyên bản thì bạn đọc Nga họ “chửi” tôi chết . Tiên trách kỷ hậu trách nhân, tôi nghĩ rằng khi ta chưa dược dịch, thì ta hãy tự trách ta đã.
      Lại có nhiều người  nói chúng ta chưa chịu làm mạnh khâu tự giới thiệu? Ông nghĩ sao về vấn đề này.
       Phải biết chi mạnh…Và ở chỗ riêng tư, các anh các chị ấy bảo nhau rằng phải khôn ranh một chút, chịu khó mời mọc người ta một chút, thì may ra mới có hiệu quả. Một bạn đọc bình thường cũng có thể thấy ngay là không phải vậy. Lâu nay nhiều tác giả lớn của nước ngoài trở thành bạn bầu của mỗi chúng ta, lý do có phải  là tại họ khéo lấy lòng ta đâu, chẳng qua là vì họ viết về những vấn đề mà ta quan tâm. Nếu có gì cần học thì ta hãy lo học ở chỗ đó. Và nên nhớ là văn học rất sòng phẳng không thứ ranh vặt nào hoặc sự khôn khéo  nào kéo lại được.  
   Tóm lại đâu là nguyên nhân khiến cho đến nay, văn học Việt Nam vẫn chưa  được thế giới chú  ý?  
 Có lần tôi đọc một bài viết về văn học Ấn Độ,  thấy họ nói  sau khi giành được độc lập, một thời gian dài đó vẫn chỉ là nền văn học viết cho chính mình chứ chưa phải là nền văn học hướng ra thế giới. Văn học Việt Nam cũng thế, vẫn còn mang tính bản địa, những thứ ta viết giống như là thứ hàng nội địa, chưa đạt tầm cỡ quốc tế. Xu thế hiện nay buộc  chúng ta phải vượt qua trình độ đơn sơ đó, biến thành cái có thể sử dụng rộng rãi trên thế giới.
    Trong văn học có khái niệm gọi là chất exotic, nghĩa là chất lạ lùng kỳ cục, hương vị riêng của những vùng đất xa xôi. Nhiều khi tác phẩm một nền văn học này  hẫp dẫn người của nền văn học khác, ở cái hương vị hương xa hoa lạ của nó. Có những nhà văn cố ý khai thác chất exotic này để chèo kéo bạn đọc. Theo quan điểm thực dụng, có thể bảo đó là một chiêu thức khôn ngoan. Nhưng các tác giả lớn không nghĩ thế. Sôlôkhốp từng viết trong lời tựa bản dịch cuốn Sông đông êm đềm ra tiếng Anh “Tôi hơi khó nghĩ về sự kiện cuốn tiểu thuyết của tôi được đón nhận như một tác phẩm “hương xa”, tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu đằng sau sự miêu tả đời sống của bọn Côdắc vùng sông Đông vốn xa lạ với người Âu, độc giả sẽ tìm ra những điều khác, nào là những biến hóa khổng lồ diễn ra trong những thói quen, nào là đời sống và tâm lý con người sau chiến tranh và sau cách mạng”.  
  Có nghĩa văn học Việt Nam chưa ra được nước ngoài là vì các tác phẩm chưa đặt vấn đề nhân loại?  
  Nói cho to tát ra thì là thế. Như nhà nghiên cứu Phan Ngọc từng nhận xét: văn học ta mạnh về dân tộc mình mà yếu về nhân loại chung... Ngoài ra còn những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ, kỹ thuật viết…. Chúng ta có rất nhiều cái lệch pha với thế giới, không chỉ lạc hậu mà còn lạc lõng. Có một người nước ngoài từng nhận xét đọc truyện cười Việt Nam mà chả thấy buồn cười gì cả. Họ đã nói thật.
      Thành thử với người trong cuộc chúng ta, lo chuyện ra với nước ngoài trước tiên là lo tìm ra cái ngôn ngữ chung với thế giới để nói mà họ hiểu. Đây tôi dùng ngôn ngữ với nghĩa rộng là cái phương thức tư duy, cách quan niệm về đời sống. Trong việc này, trước tiên cần một sự thành tâm, một sự tỉnh táo.    
Lắng nghe, khơi gợi... lời chê  
Với  một hội nghị như thế này, theo ông, cái cần nhất là gì?  
Tôi hoàn toàn chia sẻ nguyện vọng của nhiều đồng nghiệp là muốn nói, muốn giảng giải để giúp cho người ta hiểu mình. Nhưng nếu biến đây trở thành một thứ hội nghị mừng công báo công của các nhà văn hôm nay trước diễn đàn các bạn bè nước ngoài thì thật là không nên một tí nào.
  Đứng về quyền lợi chung của cả nền văn học, tôi cho trước tiên chúng ta cần coi Hội nghị là một dịp kiểm điểm lại công việc và hơn thế nữa bước đầu để tìm tới một quan niệm đúng đắn về hoạt động hội nhập văn học, bao gồm cả hai hướng ra và vào. Nếu quan niệm sai thì có làm cả núi công việc cũng vô ích. Còn có quan niệm đúng thì việc nọ gọi việc kia, dần dần ta sẽ tìm ra sức lực sẵn có mà trước đó ta không ngờ tới.
     Việc quan trọng nhất với những người dự hội nghị  trước tiên theo tôi là …biết lắng nghe. Khách nước ngoài nhiều, người Việt từ hải ngoại về nhiều. Với những người đã dịch tác phẩm của Việt Nam, thì tìm hiểu tại sao họ dịch? Sau khi dịch xong, đưa tác phẩm của các nhà văn VN tới bạn đọc xứ người, họ gặp những phản ứng gì ? Có những người chưa dịch, nhưng hẳn đã nghiên cứu về văn học VN và trong đầu óc không khỏi có sẵn những ý đồ, những suy nghĩ. Ta cần đón ngay cả những suy nghĩ mới hé mở của họ . Với các nhà xuất bản, nên tìm ở họ những gợi ý và kinh nghiệm của họ trong việc khai thác các nền văn học khác. Đây là những bước tối thiểu để đi tới một cách hiểu mới về quá trình quảng bá văn học Việt Nam sau này. Cũng trong quỹ thời gian ngắn ngủi ấy, một điều quan trọng không kém là khơi gợi được cả những lời chê của các bạn, từ đó gỡ rối dần những vấn đề của mình.  
Có  vẻ như mọi việc không chỉ gói gọn trong ngày một ngày hai là xong...  
  Quá trình này không những lâu dài mà còn rất khó khăn, ta không quen làm, nó đòi hỏi một sự thành tâm thực sự, nhất là đòi hỏi sự thay đổi trong chính tư duy của những người trong cuộc và của cả xã hội. Hội nghị này là dịp để những người viết tự nâng mình lên, hiểu thế giới hơn, từ đó trở lại hiểu mình hơn, và dần dần có được những sáng tác tốt hơn. Tiếp theo, để lo việc quảng bá văn học theo đúng tầm vóc của nó, cần lo làm sao có được cơ chế hoạt động thích hợp. Không chỉ cần những người dịch giỏi theo cái nghĩa là những người chuyển ngữ, mà còn cần cả một đội ngũ chuyên gia vừa thông thạo tình hình văn học trong nước vừa hiểu sự phát triển chung của thế giới và biết tạo ra giữa tangười những mối tiếp xúc thường trực. 
 Bài viết có sự cộng tác tích cực của nhà báo  Nguyên Anh
Đã trích in trên Đại biểu nhân dân số ra 5-1-10
Bản trên đây là  đầy đủ hơn.

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn